Vụ kiện lao động độc hại khiến doanh nghiệp mất 70 tỷ USD bồi thường
Mỹ Năm 1940-1979, do tác hại của bụi amiăng khiến hàng triệu người chết hoặc mắc bệnh ung thư phổi, 730.000 vụ kiện chống lại các nhà sản xuất đã bùng lên khắp nước.
Ông Clarence Borel, 57 tuổi, một cư dân Texas đã làm công nhân sản xuất tấm cách nhiệt suốt 33 năm và chỉ nghỉ việc năm 1969 khi bị ung thư phổi.
Công việc khiến ông phải tiếp xúc với nồng độ bụi amiăng dày đặc do khí amiăng tạo ra từ vật liệu cách nhiệt. Một ngày làm việc với vật liệu cách nhiệt có chứa amiăng khiến quần áo ông thường bám bụi đến mức "chỉ cần nhặt chúng lên từng lớp mà không giũ đập".
Borel nói từ lâu đã biết bụi amiăng có hại nhưng chưa bao giờ nhận ra nó có thể gây ra bất kỳ căn bệnh chết người nào. Ông và các đồng nghiệp đều được công ty trấn an rằng bụi này "tan khi nó chạm vào phổi".
"Tôi thực sự chưa bao giờ biết nó nguy hiểm thế nào. Nếu tôi biết thì đã nghỉ. Tôi biết mình đang làm việc với vật liệu cách nhiệt chứa amiăng, nhưng không biết amiăng là gì", ông Borel nói.
Những năm đầu ông làm việc, công nhân không được trang bị mặt nạ phòng độc, phòng bụi. Do đó, đôi khi ông sẽ đắp một chiếc khăn tay ướt lên lỗ mũi hoặc bôi tinh dầu bạc hà nhưng những phương pháp này cũng không hiệu quả.
Borel nói trong suốt thời gian đầu làm việc của mình và cho đến giữa những năm 1960 đều có sức khỏe tốt, ngoại trừ những cơn đau do tắc nghẽn phổi mà bác sĩ cho là bệnh viêm màng phổi. Năm 1964, một bác sĩ khám cho Borel liên quan đến hợp đồng bảo hiểm và thông báo kết quả chụp X-quang phổi bị đục. Bác sĩ nói nguyên nhân có thể do công việc và khuyên tránh bụi amiăng nhiều nhất có thể.
Ngày 19/1/1969, ông Borel nhập viện, được chẩn đoán là bệnh bụi phổi amiăng. Vì căn bệnh được coi là không thể chữa khỏi, ông được cho về nhà.
Tình trạng của ông dần trở nên tồi tệ hơn trong thời gian còn lại của năm 1969. Ngày 11/2/1970, ông Borel phải phẫu thuật cắt bỏ phổi phải, được xác định mắc ung thư trung biểu mô, nguyên nhân do bệnh bụi phổi amiăng.
20/10/1969, ông đệ đơn kiện lên Tòa án quận phía Đông Texas chống lại 11 nhà sản xuất vật liệu cách nhiệt amiăng, yêu cầu bồi thường một triệu USD. Ông chết ngày 3/6/1970, trước khi vụ án được xét xử vào tháng 9 năm sau.
Tại phiên tòa, luật sư của ông đã đưa ra các dẫn chứng y học cho thấy các sản phẩm amiăng thường dễ vỡ, nghĩa là chúng giải phóng các sợi cực nhỏ vô hình. Việc con người hít phải đôi khi sẽ tạo ra bệnh bụi phổi amiăng, ung thư trung biểu mô và các bệnh nguy hiểm khác. Bệnh khó phát hiện do có thời gian ủ bệnh lên tới 20-40 năm.
Theo luật Texas, nhà sản xuất sản phẩm bị lỗi có thể phải chịu trách nhiệm pháp lý với người dùng hoặc người tiêu dùng về bảo hành hoặc vi phạm pháp luật. Luật sư cho rằng nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm với ông Borel vì các công ty sản xuất amiăng biết hoặc lẽ ra phải biết về sự nguy hiểm của chất này để cảnh báo, khuyến có biện pháp bảo hộ. Nhưng họ đã không làm và cũng không loại bỏ bỏ khỏi thị trường khi xác định chắc chắn các sản phẩm chứa amiăng có thể gây bệnh tật.
Trong khi đó, các luật sư của 11 bị đơn lập luận rằng kiến thức khoa học về sự nguy hiểm của việc tiếp xúc với amiăng là chưa đầy đủ. Hơn nữa, ông Borel cũng có lỗi vì làm việc mà không có bảo hộ.
Phản đối những lập luận này, luật sư của ông Borel dẫn tài liệu cho thấy nhiều năm trước đó, các bác sĩ Trường Y khoa Mount Sinai, New York và các chuyên gia y tế khác đã công bố thông tin khoa học về sự nguy hiểm của vật liệu amiăng.
Các nhà sản xuất amiăng đã biết đến rủi ro với công nhân cách nhiệt từ những năm 1930 và thiết kế một biện pháp che đậy để che giấu thông tin về rủi ro phơi nhiễm amiăng nhằm tránh trách nhiệm pháp lý. Một nhà sản xuất đã giữ kín kết quả kiểm tra y tế của công ty với những nhân viên bị phát hiện mắc các bệnh liên quan amiăng.
Các nhà sản xuất cũng từ chối cho phép các cơ quan chính phủ kiểm tra và khảo sát an toàn. Các công ty thường chỉ cho phép khi các cơ quan quản lý đồng ý giữ bí mật kết luận của họ. Ngoài ra, các nhà sản xuất cũng bị cáo buộc gây áp lực cho các nhà nghiên cứu y tế để trì hoãn việc công bố các cuộc điều tra và thay đổi kết luận của họ.
Vụ án được xem xét bởi bồi thẩm đoàn, do đó thẩm phán có trách nhiệm hướng dẫn về mặt nguyên lý pháp luật cho bồi thẩm đoàn. Trong trường hợp này, thẩm phán đánh giá nhà sản xuất sản phẩm cần có kỹ năng của một chuyên gia trong lĩnh vực kinh doanh và sản phẩm của mình, đồng thời bám sát kiến thức khoa học chuyên sâu về thứ mình sẽ bán. Điều này đồng nghĩa, công ty phải đưa ra cảnh báo về tác hại có thể xảy ra với người sử dụng sản phẩm.
Hải Thư (Theo US Law, Texas Statte Historical Association )
Nguồn: VnExpress